John 4:1-22

Nước ta sẽ cho. Vào trong ánh sáng. Nơi thờ phượng mới. Thờ lạy sự các ngươi không biết.

NƯỚC TA SẼ CHO

1Khi Chúa đã hay rằng người Pha-ri-si có nghe đồn Ngài gọi và làm phép báp tem được nhiều môn đồ hơn Giăng, 2(kỳ thiệt không phải chính Ðức Chúa Jêsus làm phép báp tem, nhưng là môn đồ Ngài), 3thì Ngài lìa xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê. 4Vả, Ngài phải đi ngang qua xứ Sa-ma-ri. 5Vậy Ngài đến một thành thuộc về xứ Sa-ma-ri, gọi là Si-kha, gần đồng ruộng mà Gia-cốp cho Giô-sép là con mình. 6Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Nhơn đi đàng mỏi mệt, Ðức Chúa Jêsus ngồi gần bên giếng; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu. 7Một người đờn bà Sa-ma-ri đến múc nước. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy cho ta uống. 8Vì môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn. 9Người đờn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủa kìa! ông là người Giu-đa, mà lại xin uống nước cùng tôi, là một người đờn bà Sa-ma-ri sao? (Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri.) 10Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Ðức Chúa Trời, và biết người nói: "Hãy cho ta uống" là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và người sẽ cho ngươi nước sống. 11Người đờn bà thưa: Hỡi Chúa, Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống ấy?12Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao? 13Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi; 14nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó văng ra cho đến sự sống đời đời. 15Người đờn bà thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và không đến đây múc nước nữa. (John 4:1-15)

Tương tự như sự khác biệt giữa báp-têm bằng nước của Giăng Báp-tít và báp-têm bằng Đức Thánh Linh của Chúa Giê-su, nước Chúa Giê-su cho cũng khác với nuớc mà người đàn bà Sa-ma-ri múc ở giếng Gia-cốp. Uống nước Chúa Giê-su ban là đặt niềm tin nơi Ngài để được thỏa mãn sự khao khát về sự công bình của Đức Chúa Trời. Nước Chúa ban không nhằm mục đích thỏa mãn sự khao khát của xác thịt.

Sự hiểu lầm của người đàn bà Sa-ma-ri về ý nghĩa của nước Chúa ban thì cũng không khác gì sự hiểu lầm của nhiều tín hữu về ý nghĩa của Ê-sai 53:5: “Vì những lằn roi Ngài chịu chúng ta được lành bệnh.” Chúa Giê-su chịu đóng đinh để tội lỗi chúng ta được tha thứ và nhờ đó được sự sống đời đời, chứ không phải để được sống mãi về đời này.

VÀO TRONG ÁNH SÁNG

16Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây. 17Người đờn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Ðức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm; 18ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy. đến. (John 4:16-18)

Khi đến giếng vào khoảng trưa, người đàn bà Sa-ma-ri có lẽ đã chọn giờ đó để tránh gặp gỡ những người đến múc nước giếng khác. Có hai lý do khiến bà chọn giờ đó: một là gốc gác Sa-ma-ri của bà là mối khinh rẻ của người Do-thái; hai là với quá khứ đã có năm đời chồng như Chúa Giê-su đã nhìn thấu bà, thì cũng bị xã hội khinh chê. Nhưng cách xử sự của Chúa Giê-su có lẽ đã khiến bà an tâm để vì đó bà tiếp tục chuyện trò với Ngài.

Đoạn kinh thánh này bày tỏ rõ chân lý rằng Chúa Giê-su đến thế gian không phải để đoán xét (John 3:17), nhưng để cứu người. Điều đáng kể là Ngài đã không hề lên án bà về nếp sống. Rốt lại, nếu “mọi người đều phạm tội và thiếu mất sự vinh hiển của Chúa” (Romans 3:23) thì còn lên án họ để làm gì? Quá khứ thầm kín của người đàn bà này bị đem vào trong ánh sáng hiện diện của Đấng đầy ơn và lẽ thật. Nhưng trái lại, sự chiếu sáng này lại là một nguồn của sự giải thoát, mở đường cho sự chữa lành, bình an, và làm lại cuộc đời.

NƠI THỜ PHƯỢNG MỚI

19Người đờn bà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri. 20Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem. 21Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đờn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem. (John 4:19-21)

Bất kể bạn xem mình là người Do-thái hay người Sa-ma-ri, Chúa Giê-su bảo đảm rằng cơ hội thờ phượng Chúa sẽ nằm trong tầm tay với của mọi hạng người. Trong bài học tới, chúng ta sẽ xem xét một địa điểm mới Chúa dời nơi thờ phượng Ngài đến được gọi là “tâm thần và lẽ thật.”

THỜ LẠY SỰ CÁC NGƯƠI KHÔNG BIẾT

22Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến. (John 4:22)

Mỗi tôn giáo đều có những cung cách thờ phuợng. Vì thế, vấn đề không phải là người ta không thờ phượng, nhưng là họ thờ phuợng mà không biết rõ đối tượng sự tôn thờ của họ. Trong Romans 10:2, Phao-lô cho thấy có người có thể “có lòng sốt sắng về Ðức Chúa Trời, nhưng lòng sốt sắng đó là không phải theo trí khôn.” Vây, lòng sốt sắng có ích gì nếu không đặt nền tảng trên lẽ thật? Nhiều người dùng sự hăng say của họ để theo những điều sai trái dẫn họ đến chỗ hư mất. Lý do chính họ trở nên nạn nhân của những giáo sư và tiên tri giả là sự thiếu hiểu biết những chân lý nền tảng. Vì thế lòng hăng say của một người không đủ để mang đến cho họ sự cứu rỗi.

(Bài kế: John 4:23-34)

Nghi Nguyen

- Scripture quoted by permission. All scripture quotations, unless otherwise indicated, are taken from the NET Bible® copyright ©1996-2006 by Biblical Studies Press, L.L.C. All rights reserved.

Disclaimer: This is my own opinion on the topic, which does not necessarily reflect the church's theology, or beliefs of the individuals in it — Nghi Nguyen

Filed under: , and